Khi huyết áp cao hơn mức cần thiết, mặc dù trong lúc nghỉ ngơi, lúc đó bạn có thể bị chứng cao huyết áp. Ở xã hội Tây phương, theo thống kê cho biết khoảng 40% dân số mắc chứng bệnh này. Thông thường bệnh cao huyết áp không có triệu chứng rõ rệt cho đến khi một vài bộ phận bị hư hại do sức ép liên tục của huyết áp gây ra. Huyết áp cao phải được điều chỉnh trước khi những triệu chứng xảy ra, bằng cách thường xuyên đo huyết áp. Huyết áp được gọi là cao khi chỉ số huyết áp đo được có huyết áp tâm thu lớn hơn 140mmHg, hoặc huyết áp tâm trương đo được lớn hơn 90mmHg. Nếu huyết áp tâm thu trong giới hạn 120-139mmHg, hoặc huyết áp tâm trương từ 80-89mmHg cần được theo dõi huyết áp thường xuyên hơn. Nói đơn giản vậy, chứ để xác định cao huyết áp không phải là dễ trong một số trường hợp. Hiện nay có rất nhiều tranh luận và trường phái định nghĩa cho cap huyết áp. Có người cho rằng, cao huyết áp có nghĩa là huyết áp gia tăng lên (vì một lý do nào đó) so với chỉ số huyết áp bình thường trước đó (khi không có lý do đó). Do vậy, để xác định cao huyết áp, bác sĩ cần phải theo dõi huyết áp của bạn rất kỹ lưỡng và trong một thời gian dài, kết hợp với các triệu chứng lâm sàng biểu hiện bên ngoài. Huyết áp được định nghĩa, đó là áp lực của máu tác động lên thành mạch, huyết áp bao gồm huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa) và huyết áp tâm trương (huyết áp tối thiểu). Tăng huyết áp bao gồm 2 hình thái là cao huyết áp một số và cao huyết áp 2 số, trong cao huyết áp một số có cao huyết áp tâm thu và cao huyết áp tâm trương. Theo ủy ban đa quốc gia về chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị bệnh cao huyết áp (JNC), thì khi huyết áp tâm trương hay huyết áp tâm thu cao, hoặc cả 2 trị số huyết áp đều cao thì gọi là tăng huyết áp. Bình thường trị số huyết áp tối đa nhỏ hơn 1.0mmHg và huyết áp tối thiểu nhỏ hơn 90mmHg, nếu huyết áp tối đa từ 1.0mmHg trở lên và huyết áp tối thiểu từ 90mmHg trở lên thì gọi là tăng huyết áp. Trị số huyết áp thay đổi rất nhiều khi có yếu tố tác động như tâm lý (lo âu, sợ hãi, mừng vui…); vận động (đi lại, chạy nhảy) hoặc môi trường (nóng, lạnh); chất kích thích (thuốc lá, cà phê, rượu bia) và bệnh lý (nóng sốt, đau đớn). Trong những trường hợp trên, huyết áp thường tăng cao hơn bình thường. Ví dụ huyết áp lúc nghỉ ngơi thường là 130/80mmHg, khi bạn lên cầu thang lầu 3 thì trị số huyết áp của bạn có thể 150/80-180/90mmHg. Trong những trường hợp này không thể cho rằng bạn bị cao huyết áp. Do đó, tốt nhất bạn phải nghỉ ngơi ổn định trước khi đo huyết áp, nếu bạn muốn có trị số huyết áp trung thực và phải do nhiều lần sau đó tính trung bình sau 3 lần đo. Bạn cũng đừng thắc mắc nhiều nếu huyết áp trước đó khác với trị số bây giờ. Nhịp sinh học huyết áp của bạn thường dao động rõ rệt, huyết áp thường cao dần từ lúc bạn thức giấc và gia tăng tùy theo có vận động hoặc căng thẳng hay không. Vào chiều tối khi bạn nghỉ ngơi thư giãn huyết áp xuống nhẹ và sẽ xuống thấp nhất khi bạn ngủ say vào ban đêm cho đến gần sáng. Các nghiên cứu ghi nhận rằng ở người cao huyết áp mà huyết áp không hạ vào ban đêm, hoặc hạ quá mức, hoặc tăng vọt vào buổi sáng đều là yếu tố bất lợi vì dễ bị đột quỵ do cao huyết áp. – Huyết áp bình thường: 110/70-139/85mmHg. – Cao huyết áp độ 1: 140/90-160/95mmHg. – Cao huyết áp độ 2: 160/95-180/110mmHg. – Cao huyết áp độ 3: Trên 180/110mmHg. Người ta thường dùng khái niệm huyết áp tâm thu (hoặc huyết áp tối đa) cho trị số huyết áp trên và huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) cho trị số huyết áp dưới. Ví dụ, khi bác sĩ của bạn ghi huyết áp của bạn: 186/95mmHg tức là huyết áp tâm thụ (hoặc tối đa của bạn là 180mmHg và huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) là 95mmHg. Khi trị số huyết áp tâm thu >140mmHg và huyết áp tâm trương >90mmHg được xem là cao huyết áp. Đối với người già, dạng cao huyết áp phổ biến là cao huyết áp tâm thu đơn thuần, tức là chỉ số huyết áp tâm thu >160mmHg nhưng huyết áp tâm trương không cao (<90mmHg). Ở trẻ em trị số huyết áp có thấp hơn quy ước của người lớn.
|